I. LÍ THUYẾT
1. Khái niệm: Truyện ngắn (TN) là hình thức tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loại truyên ngắn bao gồm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi… nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ. TN có một số đặc điểm cơ bản sau:
2. Về dung lượng- đề tài
+ TN có dung lượng nhỏ, ngắn gọn mà cô đúc nên có sức ám ảnh lớn. Nó tập trung vào một hoặc một vài biến cố trong một không gian, thời gian nhất định, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và sự liên tưởng cho người đọc. Ví dụ (VD): TN Vi hành của Nguyễn Ái Quốc dịch ra tiếng Việt chỉ hai trang sách, được viết dưới hình thức một bức thư kể về một sự kiện là tác giả bị nhận nhầm là Khải Định. Cốt truyện không có gì, sự kiện đơn giản, dung lượng rất ngắn nhưng truyện lại có sức công phá lớn, tác động mạnh mẽ vào ý thức, khêu gợi trí tưởng tượng của người đọc để đặt ra vấn đề chính trị – xã hội, vấn đề dân tộc, vấn đề đấu tranh….
+ Về đề tài:
TN đề cập đến mọi đề tài phong phú, đa dạng, chạm đến mọi ngóc ngách đời sống con người. Trên cùng một đề tài, mỗi nhà văn lại có cách khai thác khác nhau, đem lại sắc thái riêng cho tác phẩm của mình
VD: Cùng viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Ngô Tất Tố đề cập đến sự bần cùng hóa, phá sản về vật chất của họ; còn ngòi bút Nam Cao lại xoáy vào sự tha hóa về nhân cách, phá sản về tinh thần ở những con người ấy.
3. Về kết cấu:
Tuy dung lượng nhỏ nhưng TN có thể có những kết cấu linh hoạt. Kết cấu TN không gồm không gian, thời gian nhiều tầng bậc, nhiều tuyến, mà được tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. TN có thể có các kiểu kết cấu sau đây:
– Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương ứng): CHÍ PHÈO (Nam Cao)
– Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo thời gian, theo diễn biến của dòng sự kiện: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
– Kết cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật (NV), làm sáng rõ nội tâm NV và tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam Cao)
– Kết cấu đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa điểm khác nhau trong cùng một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả năng mở rộng dung lượng cho tác phẩm: Bức tranh (Nguyễn Minh Châu).
– Kết cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện đứng ra ngoài, đóng vai trò là đạo diễn để tổ chức diễn biến câu chuyện qua lời kể, qua đó hoàn thiện chân dung NV: Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu).
– Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết còn để ngỏ, mở ra những khả năng liên tưởng rộng lớn: CHÍ PHÈO (Nam Cao) Vợ nhặt (Kim Lân).
4. Về cốt truyện:
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Cần phân biệt 2 khái niệm: cốt truyện và sườn truyện.
Thuật ngữ sườn truyện dùng để chỉ những nét bao quát nhất của một câu chuyện, bao gồm những sự kiện chính, những biến cố chủ yếu cắm mốc cho sự phát triển của cốt truyện. Nó có thể được vay mượn từ nước này sang nước khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác trong quá trình giao lưu văn hóa. Dĩ nhiên sự mô phỏng sườn truyện không có nghĩa là sao chép của người khác mà vẫn có một khoảng rộng rãi cho sáng tạo của người nghệ sĩ. Việc Nguyễn Du vay mượn sườn truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân là một ví dụ cụ thể. Sự sáng tạo ấy được thể hiện trên nhiều phương diện, từ thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, đến việc xây dựng nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Cũng có thể nói như vậy giữa Iphighêni của Euripidơ và Iphighêni của Racine, giữa Le Cid của De Catro và Le Cid của Corneille.
Nếu sườn truyện chỉ là cái khung thì cốt truyện đã là một hệ thống biến cố, sự kiện cụ thể để diễn đạt cái khung ấy. Cốt truyện là sườn truyện đã được chi tiết hóa, hình tượng hóa một cách cụ thể, sinh động qua một chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt truyện là một cái gì độc đáo, không lặp lại, gắn bó trực tiếp với những yếu tố khác làm cho tác phẩm văn học trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Có thể kể lại sườn truyện một cách dễ dàng nhưng khó có thể kể lại đầy đủ cốt truyện của một tác phẩm, nhất là một tác phẩm lớn. Khi có người đề nghị kể lại cốt truyện của một tác phẩm, L Tônxtôi cho rằng cứ đọc toàn bộ tác phẩm sẽ khắc biết cốt truyện là gì.
– Cốt truyện là một đặc trưng thi pháp của TN vì nó là kết quả của sự sáng tạo của nhà văn, là một phương thức khắc họa số phận và tính cách NV, qua đó thể hiện đời sống một cách chân thực.
– Dựa vào cốt truyện, có thể chia làm hai loại truyện:
+ Truyện không có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất mờ nhạt): do chủ ý nghệ thuật của nhà văn chỉ nhằm thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trong mối liên hệ với hoàn cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng, không có sự kiện gay cấn, thời gian cụ thể, thậm chí không có đầu đuôi (TN Thạch Lam).
+ TN có cốt truyện rất chú ý xây dựng những tình tiết, sự kiện bộc lộ tính cách của nhân vật và thúc đẩy hướng phát triển, vận động của mạch truyện. Bản thân cốt truyện là hệ thống các sự kiện, được chia theo lớp lang từ đầu đến cuối truyện. Các sự kiện càng gay cấn, nổi bật càng tạo kịch tính, sức hấp dẫn cho truyện (CHÍ PHÈO – Nam Cao)
5. Về nhân vật: (Xem thêm mục Nhân vật văn học – phần LLVH)
– NV là linh hồn của tác phẩm, là người phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn. Do đó, xây dựng NV là điểm quan trọng của TN.
– NV TN ít hơn tiểu thuyết và thường bắt buộc phải được xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. NV phải được đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, vừa mang tính chung phổ quát vừa mang tính riêng độc đáo. Trong TN, NV là một mảnh nhỏ của thế giới, là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người, phát ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp cho tư tưởng nhà văn.
– Ngoài ra, còn có loại NV tư tưởng.
6. Về điểm nhìn và phương thức kể chuyện:
* Điểm nhìn:
Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn nghệ thuật được xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ… Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.
* Phương thức kể chuyện:
– Trong TN, người ta thường dùng nhiều cách kể chuyện. Các nhà văn thường thay đổi cách kể và có thể có các hình thức kể hỗn hợp. Có hai hình thức phổ biến là:
+ Tường thuật lại quá trình, diễn biến sự việc: Vợ nhặt (Kim Lân)
+ Miêu tả lại diễn biến sự kiện: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc)
– Để nhận thức phương thức kể chuyện, người ta căn cứ vào các tình huống kể chuyện:
+ Tình huống khách quan: Tác giả đứng bên ngoài kể lại điều xảy ra: Chiếc lá cuối cùng (Ohenry)
+ Tình huống chủ quan: Tác giả hoặc người kể chuyện tự đóng vai trò là nhân vật chính của tác phẩm; kể lại những sự kiện, hành động, việc làm, ý nghĩa hoặc mối quan hệ người – người, hoặc phân tích, bình luận chung.
Cũng cần chú ý đến quan điểm của người trần thuật trong TN. Quan điểm đó thể hiện trong cách kể, nhưng cũng có khi thái độ bề mặt qua ngôn ngữ lại đánh lừa ta (CHÍ PHÈO – Nam Cao). TN cũng thường có viễn cảnh – khung cảnh được mở ra trong tương lai mà qua tác phẩm người đọc phát hiện hoặc cảm nhận được.
7. Về cách xây dựng tình huống:
– Tình huống truyện là “cái tình thế của câu chuyện”, là cảnh huống chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, xung đột hoặc những khả năng tiềm tàng để cốt truyện diễn tiến, phát triển, nhân vật bộc lộ tính cách.
– Vai trò của tình huống truyện trong tác phẩm.
Tình huống truyện có vai trò hết sức quan trọng, được ví như “cái chìa khóa vận hành cốt truyện”. Từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.
– Tình huống là thời điểm, khoảnh khắc nhất định trong tác phẩm, ở đó tập trung điểm nút chủ đạo trong tác phẩm của nhà văn. Tạo tình huống là một đặc điểm thi pháp TN. Do dung lượng nhỏ, TN buộc phải tìm đến một tình huống – tức là một khoảnh khắc đặc biệt trong đời sống – để thể hiện tập trung mối quan hệ con người, bật sáng tư tưởng của bản thân tác giả. TN có thể có một hay nhiều tình huống, tạo thành một hệ thống.
– Các kiểu tình huống truyện tiêu biểu là: tình huống nhận thức, tình huống tâm trạng, tình huống hành động.
-> Tình huống TN thường rất độc đáo, ấn tượng, tạo hiệu quả thẩm mĩ cao.
8. Về chi tiết nghệ thuật:
– Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết nghệ thuật là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”. Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định.
Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn.
– Đây là một yếu tố giữ vai trò trọng yếu trong tác phẩm tự sự. TN có thể thiếu cốt truyện nhưng không thể thiếu chi tiết nghệ thuật.
– Chi tiết trong TN hay tiểu thuyết đều nhằm bộc lộ tính cách, tâm tư NV, đan dệt nên các tình huống truyện, đều cùng có hai loại chi tiết: Chi tiết trung tâm và chi tiết phụ trợ. Nhưng chi tiết ở TN thường ẩn chứa dung lượng phản ánh rất lớn. Cũng có nghĩa là tính cô đọng, hàm súc và tượng trưng của chi tiết cao. Một chi tiết nổi bật có thể gợi cho người đọc liên tưởng đến cả một trạng thái nhân sinh xã hội, suy rộng ra bề sâu, bề xa của nội dung phản ánh.
9. Về ngôn ngữ:
– Ngôn ngữ TN rất chọn lọc, cô đúc.
– Ngôn ngữ TN hiện đại còn có các tính chất: tính biểu cảm, tính chính xác, tính hình tượng, tính hệ thống, tính đa thanh, tính đối thoại.
– Đặc điểm trần thuật của TN: Tính chấm phá. Do không phản ánh cả một quá trình cuộc sống trong không gian rộng, thời gian dài như ở tiểu thuyết nên TN thiên về lối hành văn khơi gợi hơn là miêu tả tỉ mỉ, câu văn nhiều ẩn ý, tạo chiều sâu cho tác phẩm.
Trên đây là những đặc điểm tiêu biểu của Truyện ngắn. Đó chính là những định hướng để chúng ta có thể tiếp cận, phân tích những Truyện ngắn cụ thể
10. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN
VH là một hình thái ý thức XH đặc thù. Nó cùng với các bộ môn NTkhác tạo nên diện mạo tinh thần của một dân tộc. Nếu như phương thức phản ánh của hội họa là màu sắc, của âm nhạc là giai điệu, của kiến trúc là hình khối,…thì của VH chính là ngôn từ NT. Vì thế cho nên, bản thân VH gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ dân tộc và là một trong những kênh quan trọng để nuôi dưỡng và phát triển hệ thống vốn từ tiếng Việt cùng với các quy tắc sử dụng nó.
Mặt khác, văn chương cũng như tất cả các loại hình NTkhác đều hướng tới việc phản ánh hiện thực, tái tạo hiện thực hoặc xây dựng một hiện thực viễn tưởng. Như thế, đối tượng phản ánh của nó chính là con người, cuộc đời và mục đích hướng tới cũng chính là cải tạo XH, hướng con người đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Bởi vậy cho nên, trong các giá trị căn bản của VH, người ta không thể không nói đến hai giá trị cốt lõi – giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
1. Giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực của TP VH là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong TP VH, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại c/shoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết hiện thực trong các TP văn chương đều là hiện thực được hư cấu. Nó có ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kỳ trên nhiều góc diện khác nhau hơn là các hiện thực cụ thể.
Khi làm các bài tập làm văn có dạng: Anh/ chị hãy trình bày giá trị hiện thực trong TP….? Học sinh cần xác định rõ thế nào là giá trị hiện thực, nói cách khác, cần nêu cách hiểu hay khái niệm về giá trị hiện thực. Việc nhận thức đúng, đủ sẽ giúp cho người học xác định chính xác các đặc điểm căn bản của nó, từ đó hoàn thiện được bài viết một cách tốt nhất.
Về căn bản, giá trị hiện thực gồm 2 đặc điểm chủ yếu sau:
– Đặc điểm thứ nhất: làm rõ các hiện thực được nhà văn đưa vào trong TP. Nói cách khác, TP đó phản ánh hiện thực gì? trong giai đoạn nào? Hiện thực đó được thể hiện qua những nét tiêu biểu nào? Ý nghĩa của việc phản ánh hiện thực ấy là gì?
– Đặc điểm thứ hai: Con người điển hình. Đây là nét đặc trưng của TP hiện thực. Lẽ đương nhiên gắn với mỗi thời kỳ, mỗi XH nhất định, bao giờ cũng có mẫu người đại diện cho toàn XH. Mẫu người ấy được nhà văn khái quát và xây dựng lại thành cách hình tượng điển hình trong TP của mình. Do vậy, muốn làm rõ giá trị nhân đạo của một TP nào đó, cần phân tích được hình tượng nhân vật điển hình trên các phương diện: khắc họa ngoại hình, tính cách, hành động, lời nói,….nhân vật đó đại diện cho tầng lớp, giai cấp hay lớp người nào trong XH? Nó có thể hiện tiếng nói chung cho lớp người nào không? Bằng việc xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong TP, tác giả mong muốn đạt được điều gì? Hay nhân vật điển hình giúp tác giả thể hiện hiện thực được phản ánh như thế nào?
Luôn nhớ là bất kỳ chi tiết NT nào của TP đều có ý nghĩa của nó, ý nghĩa đó độc lập tương đối, song phải luôn được đặt trong chỉnh thể để có được cái nhìn, cách đánh giá đúng đắn nhất.
2. Giá trị nhân đạo
Là một giá trị cơ bản của những TP VH chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống; Đồng thời, thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời.
Để làm rõ giá trị nhân đạo của một TP, cần phân tích được các khía cạnh sau:
– Tố cáo XH: đây chính là cái hoàn cảnh chung mà ở đó nhân vật bị đẩy vào các hoàn cảnh bi đát, đau khổ. Thông thường ở phương diện tố cáo, các nhà văn thường thể hiện quan điểm lên án, phê phán với các tầng lớp thống trị, những kẻ ăn trên ngồi trốc, ỷ mạnh hiếp yếu, trà đạp c/s con người và làm băng hoại các giá trị đạo lý.
– Ca ngợi: có thể ca ngợi một truyền thống tốt đẹp nào đó hoặc ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của một con người hoặc một lớp người trong XH. Đây chính là những vẻ đẹp bị lấp vùi bởi sự thống trị, đàn áp.
– Thương cảm, bênh vực: xuất phá từ việc phát hiện, khám phá được những nét đẹp ẩn tàng của nhân vật, hoặc nhận thức được hoàn cảnh đã đẩy những người tốt đẹp, lương thiện vào đường cùng, hoặc đẩy họ vào con đường tội lỗi nên các nhà văn bày tỏ niềm thương cảm với họ, tạo ra những tình huống, hoặc xây dựng những nhân vật phụ để làm chỗ dựa, bênh vực, che chở cho họ, giúp họ vượt qua những khó khăn, thách thức và vươn lên khẳng định bản thân, khẳng định niềm tin, ước mơ và khát vọng trong cuộc sống.
– Chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật: Đặc điểm này không hoàn toàn có trong tất cả các TP. Nó phụ thuộc vào nhận thức và khả năng dự đoán trước hiện thực của nhà văn, nhờ đó nhà văn chỉ ra được con đường giải quyết những bế tắc của số phận nhân vật, hoặc tạo ra những chi tiết viễn tưởng, kỳ ảo như một lối thoát cho nhân vật khi mà mọi nẻo đường ở thực tại hay ở chốn nhân gian đều không có khả năng thay đổi được hoàn cảnh.
Đề bài:
Bàn về truyện ngắn, Từ điển Thuật ngữ Văn học (Nhà xuất bản Văn học, 1992) trang 253 có viết:
"Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết."
Anh chị hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
- Nêu vấn đề nghị luận, trích dẫn ý kiến: "Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết."
II. Thân bài:
1. Giải thích các khái niệm
- Chi tiết trong tác phẩm văn học là: Những tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng - Từ điển thuật ngữ văn học.
- Chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn: Là những chi tiết đã được chọn lọc, nhào nặn, thông qua sự sáng tạo của nhà văn để có thể chuyên chở những ý nghĩa rộng lớn, sâu sắc mà nhà văn muốn chuyển tải.
- Lối hành văn mang nhiều ẩn ý: Qua cách dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vv.. nhà văn tạo được cách diễn đạt riêng, giọng điệu riêng góp phần thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn.
- Những chiều sâu chưa nói hết của tác phẩm: Chính là những vấn đề, những suy tư trăn trở, những quan niệm, thái độ, tình cảm.. của nhà văn được gửi gắm phía sau hình tượng, phía sau câu chữ.
2. Giải thích ý kiến
*Vì sao chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn nhiều ẩn ý lại là yếu tố quan trong bậc nhất của truyện ngắn?
- Đặc trưng của truyện ngắn: Quy mô, dung lượng phản ánh hiện thực "nhỏ", mỗi truyện ngắn có thể ví như "một lát cắt của hiện thực đời sống" (khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người) ; hạn chế về độ dài tác phẩm. Cho nên những chi tiết cô đúc, hàm chứa nhiều ý nghĩa, lối hành văn nhiều ẩn ý là hướng giải quyết tối ưu cho việc chuyển tải nội dung.
- Mỗi tác phẩm có một hệ thống chi tiết nghệ thuật. Có thể đó là một hệ thống chi tiết dày đặc như trong tác phẩm truyện, hoặc chỉ vài nét chấm phá như trong tác phẩm thơ. Nhờ hệ thống chi tiết này mà thế giới nghệ thuật của tác phẩm, từ con người đến cảnh vật hiện ra một cách cụ thể, sinh động, đồng thời cũng góp phần soi tỏ ý nghĩa của tác phẩm.
- Chi tiết có ý nghĩa rất sâu sắc trong việc cắt nghĩa hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Đọc hiểu hình tượng trong tác phẩm không thể không đọc hiểu các chi tiết nghệ thuật. Cần phải nắm lấy chi tiết nghệ thuật quan trọng nhất của tác phẩm, tìm hiểu nó trong mối quan hệ với các chi tiết khác trong tác phẩm để thấy được vai trò, ý nghĩa, tác dụng của chi tiết nghệ thuật ấy trong việc thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm, đóng góp sáng tạo của nhà văn.
3. Chứng minh tính đúng đắn của ý kiến:
- Chọn được các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu và lối hành văn mang nhiều ẩn ý trong các tác phẩm truyện ngắn;
- Phân tích được vai trò, ý nghĩa nghệ thuật của các chi tiết và lối hành văn mang nhiều ẩn ý đã chọn đối với tác phẩm nói riêng, thế giới nghệ thuật của nhà văn nói chung.
III. Kết bài
Mở rộng, nâng cao vấn đề: Một nhà văn tài năng cần tạo dựng được những chi tiết nghệ thuật độc đáo, giàu ý nghĩa có sức ám ảnh người đọc và giọng văn riêng cho tác phẩm của mình.
Bài viết tham khảo
Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt của dòng đời - cái mặt cắt giữa của thân cây vũ trụ: Chỉ lướt qua một đường vân trên cái khoảng gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc.- Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn không giống với các thể loại tự sự khác ở chỗ tuy hạn chế về chiều dài tác phẩm nhưng độ sâu của nó là thăm thẳm không cùng. Bởi thế, có ý kiến cho rằng: “Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.”
Pautôpxki có lần đã nói đại ý: Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện ngắn gọn trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường và một cái gì bình thường hiện ra như cái không bình thường. Viết truyện ngắn, nhà văn phải có khả năng quan sát tinh tế, năng lực khái quát cao độ và một cách diễn đạt phù hợp. Ý kiến trên đây đã chỉ ra chính xác yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết nghệ thuật và cách hành văn của tác giả.
Nói về dung lượng cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm thì tất nhiên truyện ngắn không thể so sánh được với các thể loại khác như truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết. Truyện ngắn không thể chứa đựng trong mình nó một dung lượng cuộc sống lớn. Với số lượng ít ỏi của câu chữ, truyện ngắn ngắn gọn, súc tích "dồn nén như bàn tay siết lại thành nắm đùm" (Hêmingway). Truyện ngắn nắm bắt được hiện thực cuộc sống qua một hiện tượng, biểu hiện một lát cắt, nói lên bản chất, số phận con người. Rất đúng khi nói rằng "yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là các chi tiết có dung lượng lớn". Do cách miêu tả cô đúc nên các chi tiết nghệ thuật của truyện ngắn thường chứa đựng một dung lượng lớn về ý nghĩa, đặc biệt là giàu ý nghĩa biểu trưng. Dung lượng ấy là dung lượng ý nghĩa chứ không phải là dung lượng phản ánh, đó là những "phần chìm" có ý nghĩa nhất của tác phẩm. Bởi thế, người viết truyện ngắn phải có kĩ thuật tinh xảo, biết dồn nén tư tưởng vào trong một cái cốt truyện thật ngắn gọn và tự nhiên. Hêmingway với khát vọng "viết những áng văn trung thực, giản dị về con người" thực sự là một nhà văn bậc thầy về truyện ngắn. Ông được nhận giải thưởng Văn học Nobel năm 1954. Truyện của Hêmingway đầy ý tưởng, những chi tiết nghệ thuật "đắt", chứa đựng nhiều tầng nghĩa cùng với cách hành văn giản dị, trong sáng mà rất uyên thâm, sâu sắc.. nhà văn đã thực sự tạo được những truyện ngắn như những "tảng băng trôi", ba phần nổi dành cho câu chữ và bảy phần chìm của ý tưởng người sáng tạo. Nói yếu tố quan trọng nhất của truyện ngắn là cách tạo dựng chi tiết nghệ thuật và cách hành văn của người viết cũng có nghĩa là đề cập đến một cách trực tiếp kĩ thuật dựng truyện và sự tinh xảo trong ngôn từ. Nguyễn Minh Châu cho rằng đó là yêu cầu của những truyện ngắn xuất sắc, và chỉ những nhà văn bậc thầy, những cây bút cao tay mới có thể làm nổi. Để tạo được "chiều sâu chưa nói hết" của truyện ngắn, tức là cái phần chìm, cái ý nghĩa biểu trưng, người viết không chỉ biết tạo ra những "chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý" mà còn phải có biệt tài trong việc lựa chọn giữa dòng đời xuôi ngược một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa và nhiều áp lực bắt buộc con người phải bộc lộ những phần sâu kín nhất. Tức là nhà văn phải biết quan sát, lựa chọn, phân tích để tìm ra những thời điểm nhất định cho sự xuất hiện của nhân vật, "những khoảnh khắc có khi chứa cả một đời người".
Nói đến những nhà văn xuất sắc của Việt Nam trong thể loại truyện ngắn thì có lẽ không thể bỏ qua Nguyễn Tuân và Nam Cao. Đấy là hai phong cách truyện ngắn khác nhau, độc đáo riêng biệt với những tác phẩm chứa đựng nhiều chi tiết có dung lượng lớn và cách hành văn đầy ẩn ý. Cô đúc ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một cái gì đó không cùng, dường như khơi mãi cũng không đến đáy. Đúng như một ai đó đã nói: "Chi tiết nghệ thuật như một giọt nước mà qua đó ta thấy cả đại dương". Câu đó thật đắc địa với truyện ngắn Nam Cao là người có biệt tài tạo dựng chi tiết cho truyện của mình. Chí Phèo là một thiên truyện tuyệt vời, nhắc đến nó không thế không nghĩ đến chi tiết bát cháo hành của Thị Nở. Đó là một chi tiết đầy sức nặng. Đó là khoảnh khắc lột xác của một con quỷ để thành con người. Đó là giây phút hạnh phúc duy nhất của một kẻ suốt dời bất hạnh. Và cao hơn nữa, từ bát cháo ấy, từ nụ cười trên đôi môi nứt nẻ nhưng rất có "duyên" của Thị Nở, nhà văn hé mở cho chúng ta nhìn thấy ánh sáng lương tri, nhân phẩm của Chí. Nam Cao đã dụng công, dụng tâm rất nhiều vào chi tiết này bên cạnh rất nhiều chi tiết, mang dung lượng lớn. Húp bát cháo hành, Chí cảm thấy mắt mình ươn ướt, hắn cảm động, hắn sống lại cái thời xa xưa, đầy mơ ước, hắn xót xa khi nhận ra thân phận của mình. Thị Nở như một vì sao đột ngột hiện lên trong bầu trời tối đen thăm thẳm của cuộc đời Chí, xua đi cái bộ mặt ác dữ của một kẻ điên khùng để thay vào đó là vẻ mặt hiền như đất, của một con người cũng biết thổn thức trong lòng. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã dồn vào đấy cả triết lí sâu sắc của mình. Cái phần người trong mỗi con người lao động đâu phải có thể tước đi một cách dễ dàng. Với những kẻ đã trượt dài trên con đường tha hóa như Chí Phèo, hãy đụng vào trái tim hắn bằng tình yêu thương. Hãy xem hắn là một con người. Bởi hắn thực sự là một con người. Sau đêm ái ân cùng Thị Nở, lần đầu tiên được người ta "cho" mà không cần phải rạch mặt ăn vạ hay rút dao ra hăm dọa. Chí Phèo cam nhận được dư vị ngọt ngào của cuộc sống. Nam Cao đã dồn rất nhiều bút lực vào đoạn này để cho câu chuyện ấy, chi tiết ấy có thể sống tới muôn đời. Văn Nam Cao thường sắc lạnh, tỉnh táo. Đó là cái tạng riêng của ông - một nét riêng của phong cách ông. Có thể liên tưởng đến ý kiến của một nhà nghiên cứu khi ví văn Lỗ Tấn như cái phích nước, trong thì sôi sục nhưng ngoài vẫn lạnh băng. Nam Cao viết lạnh lùng, nhiều lúc có vẻ như hơi tàn nhẫn nữa, nhưng cái "chiều sâu chưa nói hết" đằng sau mỗi câu chữ, mỗi giọng điệu ấy là một sự khám phá rất sâu về con người, là một đôi mắt tình thương nhìn thấu những thân phận đau khổ, lạc loài. "Hành văn mang nhiều ẩn ý" chính là như thế. Chí Phèo thức dậy sau một đêm hạnh phúc trong đời. Trong căn lều bên bờ sông một buổi sớm mai, hắn nằm nghe những âm thanh lao xao của sự sống.. Sao mà thân thương đến thế? Cuộc đời vẫn đẹp trong cái giản đơn bình dị của nó, nhưng Chí đã không thể trở lại làm một kẻ bình thường.. Dường như Nam Cao đã không kìm giữ lòng mình được mãi, khi ông tái hiện lại sự thức tỉnh đớn đau của nhân vật. "Hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc. Buồn thay cho đời". Dường như nhà văn đang đối diện với người đọc bằng một khuôn mặt "nát nhàu vì đau khổ", cất lên giọng nói của "những kiếp lầm than". Đoạn văn dịu dàng, giọng buông chùng, rõ rệt thấm thía dư vị man mác buồn của một thân phận trần trụi giữa cuộc đời hỗn độn. Buồn, chao ôi là buồn.. Nhà văn chỉ nói thế mà như mở ra cánh cửa cho người đọc nhìn sâu vào và cảm nhận được cái hút lạnh bên trong của một kiếp Chí Phèo.. Truyện ngắn cô đúc chính ở chỗ đó. Nhà văn chỉ gợi chứ không bao giờ nói hết, gợi bằng hình ảnh, chi tiết, không khí truyện, gợi bằng giọng điệu đầy dụng ý nghệ thuật của mình..
Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn có biệt tài trong việc tạo dựng không khí truyện và trong cách hành văn độc đáo. Dầu tên tuổi của ông gắn liền với tùy bút, bút kí - một thể loại phóng túng như chính con người ông, nhưng Nguyễn Tuân cũng đã để lại cho đời những truyện ngắn xuất sắc. Khác với Nam Cao luôn cố tình lạnh lùng, tỉnh táo để nắm bắt cho được bản chất đích thực của sự vật.. Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để thể hiện mình trên trang giấy, bộc lộ và khẳng định "cái tôi" ngông nghênh, ngang ngạnh nhưng rất đỗi tài hoa của mình. Chữ người tử tù là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Tuân hay và đặc sắc ở chỗ chỉ với một số lượng của chữ và dung lượng phản ánh hạn chế song nhà văn đã đặc tả được cốt cách của một con người hiên ngang bất khuất đồng thời cũng vẽ nên một bức chân dung tinh thần của mình. Truyện kể về một người tử tù - một nghệ sĩ sáng tạo và một viên quản ngục - một nghệ sĩ "thưởng thức". Các mối quan hệ khúc mắc đã được nhà văn chuẩn bị, sắp đặt trước để cho nhân vật chính hiện lên một cách rõ nét. Sự thay đổi trong suy nghĩ của Huấn Cao từ chỗ thờ ơ, ngạo nghễ, khinh thường viên quản ngục đến chỗ nhận ra "thiếu chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ" được nhà văn khắc họa thật tài tình. Nhưng nhắc đến sự thành công của truyện ngắn này thì phải kể đến "cảnh tượng" mà tác giả gọi là "xưa nay chưa từng có" trong nhà tù. Nhà văn đã chuẩn bị kĩ lưỡng của cảnh tượng Huấn Cao cho chữ này bằng cách tạo không khí truyện. Tiếng chó sủa xa xa của một đêm tình.. Một ngôi sao chính vị đang từ biệt vũ trụ.. Có cái gì đó thật linh thiêng và trang trọng. Nhà văn có lẽ rất tâm đắc với chi tiết này. Nó bộc lộ những khát vọng cao cả của một đời nghệ sĩ, muốn kí thác cái thân phận hữu hạn của mình trong cái vô hạn của cái đẹp. Nó thể hiện khoái cảm và sự rung động mãnh liệt của nghệ sĩ khi được sáng tạo - nó là niềm vui của sự gặp gỡ giữa những tấm lòng tri âm, tri kỉ.. Nguyễn Tuân đã dồn hết tâm sức vào chi tiết cuối cùng và cũng là chi tiết "chốt" của thiên truyện. Và người đọc cảm nhận được từ đó ước vọng, hoài bão lớn lao đến mức đau đớn của Nguyễn Tuân. Là con người hãy biết sống và thưởng thức cái đẹp, là nghệ sĩ được phóng bút tung hoành trong nguồn cảm hứng dạt dào, Huấn Cao cho chữ quản ngục.. "Phần chìm" mà Nguyễn Tuân muốn nói đến nữa là sự đồng cảm, là sự cộng hưởng của những tâm hồn nghệ sĩ ngưỡng vọng cái đẹp. Và chính trong những khoảnh khắc như thế, đã diễn ra sự sáng tạo đích thực.
Nếu Nguyễn Tuân suốt đời xê dịch để săn tìm cái đẹp, suốt đời kì vọng con người sống trong một môi trường văn hóa thì Nam Cao lo âu với những tấm bi kịch tinh thần của con người. Tất nhiên ở đây chúng ta chỉ xét các truyện ngắn của hai nhà văn trên phương diện đặc điểm thể loại, nhưng nói như thế để thấy được sự khác biệt trong sáng tạo truyện ngắn của hai nhà văn. Nguyễn Tuân viết như để thỏa mãn cơn khát ngôn từ, Nam Cao viết như một sự bức bách về những vấn đề xã hội, nhân loại. Đời thừa là một truyện ngắn hay của Nam Cao viết về đời sống của người trí thức tiểu tư sản. Truyện trôi theo dòng miên man độc thoại của nhân vật nhưng ngắn gọn, súc tích, vẽ lên một đô thị quanh co phức tạp về thân phận và những suy tư của nhân vật. Nhà văn gọi nhân vật của mình là "hắn" là "thị" như những sinh vật vô danh, đớn đau lắm nhưng cũng yêu thương lắm. Hộ nhân vật chính của truyện này suốt đời bị giày vò vì bi kịch của chính mình - bi kịch của một người chồng, người cha, bi kịch của một nghệ sĩ.
Truyện ngắn Nam Cao sống trong lòng người đọc có phần là do cách viết lạ của ông, những chi tiết đầy ý nghĩa, những câu văn không hề dễ dãi với một giọng điệu riêng.. tất cả dường như chỉ đi đến một nửa con đường, còn đoạn đường xa thẳm kia là dành cho sự khám phá của người đọc. Lão Hạc chết nhưng không phải là cái chết bình thường. Lão nằm xuống cho chân lí mọc lên. Đó là sự bất tử của nhân cách con người. Sống không phải là chuyện dễ dàng nhưng tàn phá nhân phẩm con người cũng không đơn giản. Truyện này ngắn gọn, với lối hành văn độc đáo.. lối hành văn theo dòng tâm tư tình cảm của nhân vật. Tác gia đã thực sự thành công trong việc khám phá sự bí ẩn của tâm tình con người để gửi gắm những ý tưởng mới lạ. Trong truyện của Nam Cao nhân vật bao giờ cũng chứa đựng trong mình nó một "năng lượng sự thật" các chi tiết bao giờ cũng mang một dung lượng ý nghĩa rất sâu sắc về nhân sinh.
Nguyễn Tuân là một dại diện tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn.. Bởi vậy cùng viết theo một thể loại truyện ngắn, nhưng Nguyễn Tuân viết theo lối tùy hứng nhiều hơn, ông không tuân thủ một cách triệt để các quy phạm của sáng tác truyện ngắn. Tập Vang bóng một thời với những tác phẩm rất khó định danh đã từng làm xôn xao dư luận. Chém treo ngành là một truyện ngắn trích trong tập này, biểu hiện rất rõ phong cách văn xuôi của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân rất chú trọng đến những nhân vật, hành động, sự kiện cũng như ngôn ngữ diễn đạt của mình. Ngôn từ trong những trang văn của Nguyễn Tuân lúc thì trang nghiêm, trang trọng, lúc thì xô bồ, lúc thì ồn ào rộn rã, có khi lại thâm trầm lặng lẽ.. tất cả như được vốc ném ra trong một cơn say chuếnh choáng. Kiêu bạc đấy nhưng cũng vô cùng tài hoa. Dẫu thế nhưng Chém treo ngành với những chi tiết độc đáo và lối văn mới lạ để lại trong lòng người những ấn tượng khó quên.. Bát Lê là một tên đao phủ chuyên chém đầu người. Nhưng suốt đời y chỉ luyện tập làm sao cho cách chém đầu người cũng toát ra vẻ đẹp của nghệ thuật. Nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng phải là những nghệ sĩ tài hoa. Bát Lê tập chém những cây chuối trong một đêm trăng để chuẩn bị chém phạm nhân ngày mai. Đầu người bị chém không rơi xuống đất mà phải dính lại bởi một làn da cổ. Thật rùng rợn và cũng khá khen thay cho ngòi bút của Nguyễn. Có lần ông đã nói ngòi bút phải động gió thì mới là sáng tạo - ông là nhà của cảm giác mạnh và chi tiết một cơn lốc nổi lên cuốn bụi mù mịt, làm chiếc mũ trên đầu tên công sứ Pháp rơi xuống lăn lộn mấy vòng trên pháp trường là một chi tiết đầy trọng lượng. Đó là lời cảnh cáo đối với kẻ cướp nước: Nợ máu phải trả bằng máu. Đó là khối căm hờn vĩ đại của những nghĩa quân bị hành quyết hướng vào kẻ thù của dân tộc.
Tônxtôi cho rằng "Viết truyện ngắn là trường học tốt nhất cho các nhà văn. Hình thức nhỏ không có nghĩa là nội dung không lớn lao". Chỉ có điều anh phải làm nổi bật được cái lớn lao ấy bằng một nghệ thuật tinh xảo, điêu luyện. Nhắc đến truyện ngắn, thế giới đã có rất nhiều tên tuổi như Lỗ Tấn, Tsêkhôp, Môpatxăng, Hêmingway.. bởi lẽ họ là những cây bút bậc thầy, biết tiếp nối cái "ngắn" của hình thức bằng cái "dài" dằng dặc của nội dung, của những ý tưởng. Truyện ngắn luôn đòi hỏi người viết phải biết dừng lại đúng lúc, biết nén, biết mở, biết đào sâu, biết khơi gợi.. biết tạo nên "những chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý tạo cho tác phẩm chiều sâu chưa nói hết".
Chỉ qua một vài truyện ngắn của Nam Cao và Nguyễn Tuân chúng ta cũng đủ thấy được yếu tố quan trọng của truyện ngắn là cách chọn lựa chi tiết và cách hành văn của người viết. Những ý tưởng sâu sắc của nhà văn và chiều sâu chưa nói hết của tác phẩm sẽ là sức hút kì diệu đối với người đọc, dẫn người đọc nhập vào những cuộc hành trình say mê kiếm tìm cái đẹp.