- KIẾN THỨC NGỮ VĂN
- Cách đọc hiểu:
+ Cốt truyện: Xác định những sự việc được kể, đâu là sự việc chính.
+ Xác định được bối cảnh không gian, thời gian của câu chuyện.
+ Nhân vật: Nhân vật chính là ai? Nhận biết tính cách nhân vật qua các chi tiết miêu tả ngoại hình, tâm lí, hành động và lời nói (Chú ý hình dạng và hành động phi thường, khả năng biến hoá khôn lường của nhân vật thần trong thần thoại; chú ý tài năng, phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn nhân vật; chú ý tâm lí nhân vật).
+ Xác định được những chi tiết hoang đường, tưởng tượng trong đoạn trích thần thoại hoặc truyện truyền kì; xác định tình huống truyện
+ Rút ra đề tài, chủ đề của đoạn trích thần thoại
+ Rút ra được thông điệp, bài học cho bản thân.
- Tri thức bổ trợ
| Cốt truyện | Cốt truyện trong tác phẩm tự sự ( thần thoại, sử thi, cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết,…) và kịch được tạo nên bởi sự kiện (hoặc chuỗi sự kiện). |
| Sự kiện | - Sự kiện là sự việc, biến cố dẫn đến những thay đổi mang tính bước ngoặt trong thế giới nghệ thuật hoặc bộc lộ những ý nghĩa nhất định với nhân vật hay người đọc - điều chưa được họ nhận thấy cho đến khi nó xảy ra. - Sự kiện trong cốt truyện được triển khai hoặc liên kết với nhau theo một mạch kể nhất định, thống nhất với hệ thống chi tiết và lời văn nghệ thuật (bao gồm các thành phần lời kể, lời tả, lời bình luận,...) tạo thành truyện kể. |
| Người kể chuyện | - Trong nhiều loại hình tự sự dân gian, người kể chuyện có thể là người trực tiếp tiếp diễn xướng để kể lại câu chuyện cho công chúng. Trong tự sự của văn học viết, người kể chuyện là “vai” hay “đại diện” mà nhà văn tạo ra để thay thế mình thực hiện việc kể chuyện. - Truyện kể chỉ tồn tại khi có người kể chuyện. Nhờ người kể chuyện, người đọc được dẫn dắt vào thế giới nghệ thuật của truyện kể để tri nhận về nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian,…Người kể chuyện cũng khơi dậy ở người đọc những suy tư về ý nghĩa mà truyện kể có thể gợi ra. |
| Nhân vật | - Nhân vật là con người cụ thể được khắc họa trong tác phẩm văn học bằng các biện pháp nghệ thuật. Cũng có những trường hợp nhân vật trong tác phẩm văn học là thần linh, loài vật, đồ vật,…nhưng khi ấy, chúng vẫn đại diện cho những tính cách, tâm lí, ý chí hay khát vọng của con người. - Nhân vật là phương tiện để văn học khám phá và cắt nghĩa về con người. |
| Thần thoại | Khái niệm | Thần thoại là thể loại truyện kể xa xưa nhất, thể hiện quan niệm về vũ trụ và khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên của con người thời nguyên thủy. |
| Phân loại | - Căn cứ theo chủ đề: + Thần thoại suy nguyên (kể về nguồn gốc vũ trụ và muôn loài) + Thần thoại sáng tạo (kể về cuộc chinh phục thiên nhiên và sáng tạo văn hóa) - Căn cứ theo đề tài, nội dung: + Truyện kể về việc sinh ra trời đất, núi sông, cây cỏ, muông thú. + Truyện kể về việc sinh ra loài người và các tộc người. + Truyện kể về kì tích sáng tạo văn hóa. |
| Đặc điểm | - Cốt truyện đơn giản. - Thời gian, không gian: + Thời gian phiếm chỉ mang tính ước lệ. + Không gian vũ trụ với nhiều cõi khác nhau. - Nhân vật chính: các vị thần, những con người có nguồn gốc thần linh, năng lực siêu nhiên, hình dạng khổng lồ, sức mạnh phi thường. Chức năng của các nhân vật là cắt nghĩa, lí giải các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội, thể hiện niềm tin và khát vọng tinh thần có ý nghĩa lâu dài của nhân loại. - Thủ pháp nghệ thuật: cường điệu, phóng đại. - Lối tư duy hồn nhiên, chất phác, trí tưởng tượng bay bổng, lãng mạn. Sức sống lâu bền cho thần thoại. |
- Kiến thức văn bản
- Văn bản 1, 2, 3: Truyện về các vị thần sáng tạo thế giới
+ Thần Trụ Trời
+ Thần Gió
+ Thần Sét
1. Thể loại:
- Thể loại: thần thoại
- Phân loại: thần thoại suy nguyên
- Ngôi kể: ngôi thứ ba
- Người kể chuyện: Tác giả dân gian
- Phương thức biểu đạt chính: tự sự
2. Cốt truyện
- Nhân vật chính: Các vị thần
- Sự việc chính:
+ Thần Trụ Trời: Dựng cột chống trời tạo ra trời đất
+ Thần Sét: Tạo sét
+ Thần Gió: Tạo gió
3. Tóm tắt:
+ Thần Trụ Trời: Xuất hiện với thân thể to lớn khi trời đất còn là một đám hỗn độn. Thần đội trời, đào đất đá đắp cột chống trời. Trời đất phân ra làm hai. Sau đó, thần phá cột ném vung đất đá đi khắp nơi thành núi, đảo, cồn, đồi, cao nguyên…Cột đó bây giờ không còn, nhưng người hạ giới vẫn cho núi Thạch Môn là di tích, người ta gọi là Cột chống trời.
+ Thần Sét: Là tướng lĩnh của Ngọc Hoàng, danh hiệu Thiên Lôi hay ông Sấm. Mặt mũi thần nanh ác, tiếng quát tháo dữ dội. Thần chuyên thi hành luật pháp ở trần gian, phản ánh cơn thịnh nộ của Ngọc Hoàng. Thần có một lưỡi búa đá chuyên để xử án. Thần thường ngủ vào mùa đông và làm việc vào tháng Hai, tháng Ba. Tính thần nóng nảy, có lúc làm người, vật chết oan và bị Ngọc Hoàng phạt. Mặc dù cực oai nhưng cũng có lúc thần lại thua Cường Bạo Đại Vương.
+ Thần Gió: Hình dạng kì quặc, không có đầu. Bảo bối của thần là quạt màu nhiệm tạo gió nhỏ, bão lớn theo lệnh Ngọc Hoàng. Thần có đứa con nhỏ nghịch ngợm, giở quạt của cha làm gió thổi chơi lúc thần đi vắng khiến một người đói khổ bị văng mất bát gạo đi vay. Thần Gió bị kiện lên thiên đình. Kết quả là con thần Gió bị đày xuống trần chăn trâu cho người mất gạo, sau hóa thành cây ngải để báo tin gió cho thiên hạ.
4. Ý nghĩa của các vị thần
- Các vị thần cũng giống như con người có khi cũng mắc lỗi lầm, cũng có lúc sai trái, có lúc nhầm lẫn. Họ gần gũi thân thiết với con người, nhưng đồng thời họ mang sức mạnh phi thường để tạo lập nên thế giới.
-Trong cách nhìn hài hước của dân gian có khi họ mạnh mẽ là thế, họ phi thường là thế, nhưng họ lại cũng rất yếu đuối, hồn nhiên hoặc cũng có khi từ một hình phạt đối với họ mà trở thành những bài học kinh nghiệm quý báu giúp cho dân gian có cuộc sống thanh bình yên ấm hơn.
- Hình tượng thần Trụ Trời, thần Sét và thần Gió chính là cách hình dung, lí giải về sự hình thành thế giới tự nhiên, nguồn gốc vũ trụ và muôn loài của con người thời nguyên thủy.
- Kì tích của các vị thần trong 3 truyện thần thoại đồng thời phản ánh vẻ đẹp riêng của cuộc sống lao động, tín ngưỡng và văn hóa của từng cộng đồng.
- Truyện thần thoại mang vẻ đẹp “một đi không trở lại” tạo nên sức hấp dẫn riêng của văn học dân gian, thể hiện niềm tin thiêng liêng của con người cổ sơ về một thế giới mà ở đó vạn vật đều có linh hồn. Niềm tin ấy vẫn còn nguyên vẹn sức hấp dẫn với con người hiện đại hôm nay và mai sau.
5. Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật:
5. 1. Nghệ thuật:
5.1.1. Xây dựng nhân vật qua các chi tiết kì ảo
- Thần Trụ Trời:
+ Thân thể to lớn, không biết bao nhiêu mà kể, chân thần bước một bước cứ như bây giờ là từ tỉnh này qua tỉnh nọ hay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi kia
+ Đội trời lên rồi đào đất, đá đắp thành một cái cột vừa to vừa cao để chống trời, sau đó phá cột đá đi rồi ném vung đá và đất đi khắp mọi nơi mọi chỗ…
- Thần Sét:
+ Mặt mũi nanh ác, tiếng quát tháo rất dữ dội..
+ Thường ngủ về mùa đông…
+ Nóng nảy…có lúc làm cho người, vật chết oan…
- Thần Gió:
+ Hình dạng kì quặc, không có đầu…
+ Thỉnh thoảng xuống hạ giới đi chơi vào những buổi tối trời…
=>Ý nghĩa của những chi tiết kì ảo: Chi tiết kỳ ảo thể hiện trí tưởng tượng của dân gian về sức mạnh của các vị thần trong công cuộc tạo lập nên thế giới. Qua đó, ngợi ca sức sáng tạo và tinh thần lao động hăng say miệt mài của con người trong buổi sơ khai.
- Cũng có lúc chi tiết kì ảo chỉ đơn giản nhằm lý giải những hiện tượng tự nhiên hoặc nêu lên một bài học kinh nghiệm trong cuộc sống.
5.1.2. Đặc điểm nổi bật trong cách xây dựng nhân vật của chùm truyện thần thoại:
- Xây dựng nhân vật chức năng: có ý nghĩa cắt nghĩa, lí giải các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội, thể hiện niềm tin của con người cổ sơ cũng như những khát vọng tinh thần có ý nghĩa lâu dài của nhân loại.
- Thời gian phiếm chỉ, mang tính ước lệ và không gian vũ trụ với nhiều cõi khác nhau.
- Ngôn ngữ tự sự thể hiện lối tư duy hồn nhiên, chất phác.
- Cốt truyện đơn giản nhưng hấp dẫn, sinh động, có những chi tiết bất ngờ thú vị thể hiện trí tưởng tượng bay bổng, lãng mạn, sức sáng tạo kì diệu của dân gian, góp phần làm nên sức cuốn hút và sức sống lâu bền cho thần thoại.
- Văn bản 4: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
(Trích Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ)
1.Tác giả
a. Cuộc đời
- Sống khoảng thế kỉ XVI, chưa rõ năm sinh và năm mất.
- Quê quán: huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha là Nguyễn Tường Phiêu từng đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Lê Thánh Tông từ năm 1496, nhưng không bao lâu thì từ quan lui về ẩn dật.
- Bản thân ông từng là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Dữ thi đỗ cử nhân thời Lê – Mạc nhưng chỉ làm quan chưa đầy một năm, sau đó từ quan về quê sống ẩn dật trọn đời.
b. Sự nghiệp sáng tác
- Để lại tập truyện Truyền kì mạn lục
2. Tác phẩm
a. Truyền kì mạn lục
(Ghi chép tùy hứng những chuyện kì lạ)
- Tập truyện được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVI theo thể loại truyền kì.
- Truyền kì là một thể loại văn học có nguồn gốc từ Trung Quốc, phát triển mạnh vào đời nhà Đường.
- Tác phẩm gồm 20 truyện, được viết bằng chữ Hán với hình thức văn xuôi xen lẫn thơ, ca, từ, biền văn; cuối mỗi truyện đều có lời bình.
- Truyện Truyền kì thường kể về những câu chuyện kì lạ, sử dụng nhiều yếu tố kì ảo và xây dựng các nhân vật có hành trạng khác thường. Các tác giả trung đại Việt Nam đã sử dụng một cách sáng tạo thể truyền kì để phản ánh những vấn đề thiết yếu của con người, thời đại. Tiêu biểu như: Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Thánh tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh),…
- Truyền kì mạn lục phong phú về đề tài, có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc, được đánh giá là đỉnh cao của thể loại truyền kì Việt Nam thời trung đại, được Vũ Khâm Lân (thế kỉ XVII) khen là “thiên cổ kì bút”, được dịch ra và nghiên cứu ở nhiều nước.
b. Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên
- Xuất xứ: Được trích từ tập truyện Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
- Đề tài: Thuộc nhóm truyện về đề tài nho sĩ.
- Nhân vật chính: Ngô Tử Văn
- Các sự việc chính:
+ Phần 1: (“Ngô Tử Văn….không cần gì cả”): Ngô Tử Văn đốt đền tên tướng giặc họ Thôi.
+ Phần 2: (“Đốt đền xong… khó lòng thoát nạn”): Cuộc gặp gỡ giữa Ngô Tử Văn với tên tướng giặc họ Thôi và với vị Thổ công.
+ Phần 3: (“Tử Văn vâng lời…như cám vậy”): Cuộc đấu tranh giành công lí của Tử Văn ở âm cung.
+ Phần 4: còn lại: Ngô Tử Văn được tiến cử giữ chức Phán sự đềnTản Viên.
- Tóm tắt văn bản: Ngô Tử Văn là một kẻ sĩ nổi tiếng khảng khái, chính trực vốn không chịu được sự tác yêu tác quái của hồn tên tướng giặc bại trận nên đã đốt đền của hắn, trừ hại cho dân. Tên hung thần kiện chàng ở âm phủ. Tử Văn được thổ thần mách bảo về tung tích và tội ác của tên tướng giặc, đồng thời bày cho chàng cách đối phó với hắn. Xuống âm phủ, trước Diêm Vương, chàng đã dũng cảm vạch trần tội ác của tên hung thần. Công lý được thực thi: tên tướng giặc bị trừng trị, thổ thần được phục chức, Tử Văn được sống lại, sau đó được nhận chức Phán sự đền Tản Viên chuyên trông coi việc xử án.
3. Đặc sắc nội dung và nghệ thuật
3.1. Nghệ thuật
- Sử dụng kết hợp yếu tố kì ảo và yếu tố thực:
+ Yếu tố kì ảo (Cuộc gặp gỡ giữa con người và hồn ma, con người và thần thánh, thế giới thực - ảo, trần thế - địa ngục, chết đi – sống lại, khi chết Ngô Tử Văn làm quan…) -> tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện.
+ Yếu tố thực -> tăng sức thuyết phục cho các sự kiện và nhân vật được kể.
- Xây dựng cốt truyện giàu kịch tính ->tạo sức lôi cuốn.
- Cách kể, dẫn dắt truyện khéo léo, nhiều chi tiết gây sự chú ý, hấp dẫn.
- Triết lí sâu sắc...
3.2. Nội dung
- Đề cao tinh thần khảng khái, cương trực dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn – một trí thức nước Việt.
- Thể hiện niềm tin vào công lí, chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
- Văn bản 5: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
1. Tác giả Nguyễn Tuân (1910 – 1987)
- Quê ở làng Nhân Mục, nay thuộc quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
- Ông là tác giả có đóng góp lớn cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt trên hai thể loại chính là truyện ngắn và tùy bút.
- Sáng tác của Nguyễn Tuân bộc lộ cái tôi độc đáo, tài hoa, uyên bác; tràn đầy niềm say mê cái đẹp; thể hiện tấm lòng thiết tha gắn bó với cảnh sắc quê hương xứ sở và thái độ nâng niu, trân trọng các giá trị văn hóa của dân tộc. Lối viết của Nguyễn Tuân khá cầu kì, lôi cuốn người đọc bằng ngòi bút giàu cảm hứng lãng mạn và tài nghệ sử dụng ngôn ngữ bậc thầy. Ông đã góp cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nhiều tác phẩm xuất sắc: Vang bóng một thời (tập truyện ngắn, 1940), Thiếu quê hương (tập tùy bút, 1940), Chùa Đàn (tiểu thuyết, 1946), Sông Đà (tập tùy bút, 1965), Cô Tô (kí, 1965),…
2. Tác phẩm Chữ người tử tù
- Nhan đề: Giòng (dòng) chữ cuối cùng, in lần đầu trên tạp chí Tao Đàn (1938).
- Sau đó: In lại trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời (1940) với tên Chữ người tử tù.
- Là “một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan)
- Viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng
- Nhân vật chính: Huấn Cao là con người tài hoa mà lỡ thời, bất mãn, bế tắc trước thực trạng xã hội đương thời. Huấn Cao là hiện thân của những vẻ đẹp còn sót lại từ quá khứ: thú chơi tao nhã, nếp sống thanh cao, tinh thần hào hiệp, nghĩa khí,…
- Ngôi kể: ngôi thứ ba
- PTBĐ chính: tự sự
- Bố cục văn bản: Văn bản chia làm 3 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến rồi sẽ liệu: tâm trạng quản ngục khi nghe tin tiếp nhận tù nhân.
+ Phần 2: Tiếp theo đến thì ân hận suốt đời nữa: Ông Huấn Cao xuất hiện trong đề lao và quá trình biệt đãi mong xin được chữ tử tù của quản ngục.
+ Phần 2: Tiếp theo đến một tấm lòng trong thiên hạ: Chuẩn bị cho chữ.
+ Phần 3: còn lại: Cảnh cho chữ.
- Cốt truyện:
Huấn Cao vốn là một người nổi tiếng viết chữ đẹp. Nhưng vì chống lại triều đình nên ông bị bắt vào nhà giam chờ ngày tử hình. Ở đây, quản ngục và thầy thơ lại dành cho ông sự biệt đãi nhưng Huấn Cao vẫn lạnh lùng, khinh bạc. Trước ngày Huấn Cao bị xử tử, viên quản ngục đã quyết định phải xin chữ của ông. Huấn Cao vì cảm động trước tấm lòng của người quản ngục nên gật đầu đồng ý. Thế là trong đêm khuya nơi ngục tù tối tăm, bẩn thỉu đã diễn ra cảnh cho chữ mà tác giả gọi là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Người tử tù chân tay đeo xiềng xích vẫn phóng những nét chữ tài hoa, tung hoành cả đời người. Còn viên quản ngục và thầy thơ lại thì đang cúi mình trước cái đẹp. Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên người quản ngục thay chốn ở đi để giữ được thiên lương trong sáng của mình.
3. Đặc sắc nội dung và nghệ thuật
3.1. Nghệ thuật:
- Tạo dựng tình huống truyện độc đáo.
- Xây dựng thành công thủ pháp đối lập, tương phản.
- Xây dựng thành công nhân vật.
- Ngôn ngữ góc cạnh, giàu hình ảnh, có tính tạo hình, giàu chất nhạc, chất hoạ, vừa cổ kính vừa hiện đại.
3.2. Nội dung, ý nghĩa:
Nguyễn Tuấn đã khắc hoạ thành công hình tượng Huấn Cao - một người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín lòng yêu nước.
II. THỰC HÀNH
Đề ôn tập:
I. Đọc hiểu (4,0 điểm). Đọc văn bản sau :
Cóc kiện trời
Thần thoại Việt
Ngày ấy, thần Mưa vắng mặt lâu ngày. Người ta không hiểu thần còn bạn những công việc gì ở đâu, đến nối luôn trong ba năm, nước không nhỏ xuống được một giọt. Ngày ngày cô Trời, cô Trăng nung nấu thiên hạ, cây cỏ lúa má cháy khô, đất đai nứt lẻ. Thú vật và người chết dần chết mòn. Tất cả đều nguy khốn đến nơi.
Lúc đó muôn vật còn sống sót đều tập trung ở vũng nước cuối cùng đã cạn. Ngày cũng như đêm, nào voi, cọp, trâu, ngựa, tê giác, lợn, thỏ, chồn, cáo, gấu, mèo, hươu, nai, cóc, nhái,…chen nhau giải khát ở vũng bùn đó. Hôm ấy, sau khi đã giải khát xong, đa số giống vật bèn quay ra thảo luận tìm cách đối phó trước tình thế hiện tại. Cuộc họp mỗi lúc một đông và sôi nổi. Cuối cùng các giống vật đều đồng ý cử một đại biểu lên trời đòi Ngọc Hoàng phải ra lệnh cho thần Mưa trở về làm nhiệm vụ gấp. Hội nghị ban đầu cử Thỏ là kẻ có trí khôn để lên tuỳ cơ ứng biến[1]. Nhưng Thỏ từ chối và nói: “Tôi đi không bằng Cóc. Cóc là kẻ có mưu trí lại vừa gan góc hơn tôi nhiều lắm”.
Hội nghị đồng ý cử Cóc đi. Cóc nhận lời, nhưng đề nghị phải có Cáo, Gấu và Cọp đi cùng với mình.
[…]Bốn con vật lên đến thiên đình, thấy trước cửa có đặt một cái trống. Theo quy định của nhà trời thì ai có việc gì oan khốc muốn gặp Ngọc Hoàng sẽ đánh trống lên. Cóc bảo các bạn mình hãy náu mình ở trong bụi rậm chờ đó, còn mình bước vào nhảy lên trống đánh inh ỏi. Ngọc Hoàng nghe tiếng bèn sai một Thiên thần ra xem. Thiên thần bước ra nhìn ngược nhìn xuôi không thấy gì cả, mãi về sau mới nhận ra Cóc ngồi nép bên cạnh trống. Thần tỏ ý khinh thường, hỏi Cóc đi đâu, Cóc giương đôi mắt lên trả lời vắn tắt là đi kiện Trời. Thiên thần bũi môi, hỏi kiện việc gì. Cóc chỉ trả lời cộc lốc là cần phải gặp mặt Ngọc Hoàng mới bày tỏ được.
Nghe Thiên Thần báo cáo thái độ xấc xược của con vật tí hon, Ngọc Hoàng tức giận bèn sai một bầy gà ra mổ cho Cóc sợ hãi phải lui sớm. Nhưng không ngờ bầy gà vừa ló ra khỏi cửa Thiên đình, Cóc ra hiệu cho Cáo ở ngoài bụi xông vào cắn đàn gà ăn thịt tuốt. Cóc lại nhảy lên đánh trống ầm ĩ. Biết bầy gà thần bị hại. Ngọc Hoàng cả giận, sai Chó ra giết Cáo, nhưng Chó vừa đến nơi, sủa lên mấy tiếng đã bị Gấu vồ chết tươi. Ngọc Hoàng lại sai một toán lính ra trị Gấu. Lần này Cọp xông ra quật chết toán lính không xót một tên nào.
Ngọc Hoàng thấy mình mấy lần bị thua thiệt, không ngờ con vât tuy nhỏ bé nhưng lại khó trị được nó mới đổi giận làm lành. Bèn sai Thiên Thần mời Cóc vào tiếp đãi tử tế rồi hỏi : “Cậu nên đây có việc gì?”
Cóc nhảy tót lên ghế ngồi. Cóc trách Ngọc Hoàng không lưu ý đến việc hạ giới. Rồi kể chuyện hạn hán ở trần gian: nỗi khốn khổ của muôn vật tranh nhau một vũng vước bùn; nỗi nguy ngập của nòi giống mình, không có nước để đẻ con…Đoạn Cóc yêu cầu Ngọc Hoàng phải làm mưa xuống gấp. Ngọc Hoàng xét lại sự đó mới hay thần Mưa bấy lâu nay xao nhãng công việc đắp chiếu nằm khoèo. Lập tức, Ngọc Hoàng giục thần mưa và bộ hạ[2] bay về hạ giới hút nước để phun khắp mọi vùng cấp cứu muôn vật.
Trước khi Cóc ra về, Ngọc Hoàng còn dặn từ nay về sau, hễ khi nào cần mưa thì Cóc cứ lên ít tiếng tự khắc Ngọc Hoàng biết mà bảo làm mưa ngay, không phải lên trời làm gì. Thấy Cóc đấu tranh thắng lợi, lại thấy ông Trời gọi Cóc là “cậu” nên mọi giống vật đều kiêng nể không dám động đến nó. Tục ngữ mới có câu:
Con Cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho
Là cũng do chuyện đó.
(Theo Bùi Văn Nguyên, Đỗ Bình Trị, Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam, Tập I : Văn học dân gian, phần I, NXB Giáo dục, 1974. Tr.49 – 52)
Câu 1.( 0,5 điểm). Xác định nhân vật chính trong văn bản trên?
Câu 2(0,5 điểm). Tìm những từ ngữ, câu văn miêu tả hành động của Cóc khi lên thiên đình?
Câu 3.( 1,0 điểm). Theo em có nên lược bỏ chi tiết “Hội nghị đồng ý cử Cóc đi. Cóc nhận lời, nhưng đề nghị phải có Cáo, Gấu và Cọp đi cùng với mình.….” không? Vì sao?
Câu 4.( 1,0 điểm). Mục đích của tác giả dân gian sáng tạo truyện Cóc kiện trời là gì?
Câu 5( 1,0 điểm). Thông điệp tâm đắc nhất anh chị rút ra từ văn bản trên là?
II. VIẾT (6.0 điểm).
Câu 1 (2,0 điểm). Hãy viết đoạn văn 200 từ bàn về ý nghĩa của tinh thần đoàn kết trong cuộc sống?
Câu 2.(4,0 điểm).Viết một bài luận (khoảng 500 chữ) phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của văn bản trên?
********************
[1] Tuỳ cơ ứng biến: theo tình hình mà đối phó, hành động
[2] Bộ hạ: (từ cũ) chỉ người dưới quyền