1. Truyện và những vấn đề về truyện
Truyện là một loại tác phẩm văn học, sử dụng phương thức kể chuyện, bao gồm các yếu tố chính như: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật,...
Chi tiết tiêu biểu là chi tiết gây ấn tượng, cảm xúc mạnh đối với người đọc, góp phần quan trọng tạo nên hình tượng nghệ thuật gợi cảm và sống động trong tác phẩm. Ngoại hình của nhân vật là những biểu hiện đặc điểm bên ngoài của nhân vật, thể hiện qua hình dáng, nét mặt, trang phục.
Ngôn ngữ nhân vật là lời của nhân vật trong tác phẩm, thường được nhận biết về mặt hình thức qua các dấu hiệu như: câu nói được đặt thành dòng riêng và có gạch đầu dòng, câu nói được đặt trong ngoặc kép sau dấu hai chấm.
Hành động của nhân vật là những động tác, hoạt động của nhân vật, những hành vi, ứng xử của nhân vật với những nhân vật khác và với các sự vật, hiện tượng trong tác phẩm.
Ý nghĩ của nhân vật là những suy nghĩ của nhân vật về con người, sự vật hay sự việc nào đó. Ý nghĩ thể hiện một phần tính cách, tình cảm, cảm xúc của nhân vật, chi phối hành động của nhân vật.
2. Đề tài
-Đề tài: hiện tượng, phạm vi đời sống cụ thể được thể hiện/được kể ở trong vb. Trả lời câu hỏi: Tác phẩm viết về cái gì? Viết về hiện thực nào?
(Ai? Cái gì? Hiện tượng gì? Đối tượng nào?)
Đề tài rộng – đề tài hẹp (đặt vào hoàn cảnh xã hội, bối cảnh sáng tác/ra đời vb, đặc điểm sáng tác của nhà văn)
-Đề tài, nội dung truyện ngắn có thể lấy ở nhiều mặt của cuộc sống, nhiều vấn đề có tính chất thời sự xã hội. Phần lớn là vấn đề đời tư cá nhân, có khi chỉ là khoảnh khắc trong đời tư đó. Việc lựa chọn đề tài, phản ánh nội dung trong tác phẩm chịu sự chi phối bởi “nhãn quan” nhà văn, trong đó xác lập “điểm nhìn” riêng cho mình là quan trọng hơn cả. Nhà văn tiến bộ luôn đứng trên mọi quan hệ giai cấp, mọi sự ràng buộc của hệ tư tưởng, nói lên tiếng nói lẽ phải của chân lý, cuộc đời. Cảm hứng thế sự chi phối âm vang, độ lắng đọng của truyện ngắn trong dòng thời gian, trong lòng người đọc. Những truyện ngắn trường tồn mãi mãi khi nó âm ỉ bên trong những tiếng nói thầm kín của con người, những khát vọng của mọi thời đại.
-Truyện ngắn đề cập đến mọi đề tài phong phú, đa dạng, chạm đến mọi ngóc ngách đời sống con người. Trên cùng một đề tài, mỗi nhà văn lại có cách khai thác khác nhau, đem lại sắc thái riêng cho tác phẩm của mình. Cùng viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Ngô Tất Tố đề cập đến sự bần cùng hóa, phá sản về vật chất của họ; còn ngòi bút Nam Cao lại xoáy vào sự tha hóa về nhân cách, phá sản về tinh thần ở những con người ấy.
3. Chủ đề
Chủ đề: vấn đề cốt lõi trong vb là gì? Vấn đề đó được thể hiện như thế nào qua: đề tài,nhan đề, các yếu tố hình thức trong vb (lớp 8) (Hiểu một cách đơn giản, chủ đề là vấn đề chính, vấn đề chủ yếu được nhà văn đặt ra trong tác phẩm.) + truyện: nhân vật chính, mối quan hệ giữa nhân vật, sự kiện-chi tiết tiêu biểu, tư tưởng, góc nhìn của tác giả…
+ thơ: nhan đề, bố cục, mạch cảm xúc, hình ảnh – từ ngữ, tình cảm – cảm xúc của nhân vật trữ tình
VD. Phân biệt đề tài và chủ đề: Trong truyện ngắn “Chí phèo”, nhà văn Nam Cao khai thác:
+ Đề tài số phận người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. + Chủ đề là bi kịch bị lưu manh hóa của người nông dân và khát vọng hoàn lương của họ.
1
*Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề
- Đề tài là cơ sở để triển khai chủ đề. Ví dụ từ đề tài người nông dân, nhà văn đặt ra vấn đề gì? Từ đề tài người kĩ nữ, anh viết về chủ đề nào?
- Cùng viết về đề tài nhưng mỗi nhà văn với vốn sống vốn văn hóa, lập trường tư tưởng khác nhau… sẽ có những cách triển khai chủ đề khác nhau.
4. Tư tưởng
- Tư tưởng của một tác phẩm văn học bao gồm:
+ Sự nhận thức, lí giải của tác giả về nội dung, chủ đề của tác phẩm. + Thái độ, quan điểm của tác giả đối với những vấn đề về cuộc sống con người được đề cập trong tác phẩm.
- Tư tưởng được thể hiện thông qua:
+ Hình tượng nghệ thuật (nhân vật, chi tiết, biểu tượng...)
+ Đề tài, chủ đề của tác phẩm.
+ Cảm hứng chủ đạo (xuyên suốt tác phẩm).
+ Các yếu tố nghệ thuật khác như giọng điệu, ngôn ngữ, cách kết cấu... => tư tưởng là sự kết tinh của nhận thức, tình cảm và thái độ của nhà văn đối với cuộc sống,được thể hiện một cách sâu sắc và toàn diện qua tác phẩm vănhọc 5. Cảm hứng chủ đạo
Cảm hứng chủ đạo: là trạng thái tình cảm, cảm xúc chủ yếu chi phối quá trình sáng tạo và thể hiện xuyên suốt tác phẩm.Trả lời cho câu hỏi: Tác giả đã thể hiện cảm xúc, tình cảm gì trước hiện thực cuộc sống?
6. Kết cấu
Về kết cấu, tuy dung lượng nhỏ nhưng truyện ngắn có thể có những kết cấu linh hoạt. Kết cấu truyện ngắn không gồm không gian, thời gian nhiều tầng bậc, nhiều tuyến, mà được tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. Truyện ngắn có thể có các kiểu kết cấu sau đây:
- Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương ứng): Chí phèo (Nam Cao).
- Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo thời gian, theo diễn biến của dòng sự kiện: Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
-Kết cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật (NV), làm sáng rõ nội tâm NV và tạo sức hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam Cao) -Kết cấu đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa điểm khác nhau trong cùng một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả năng mở rộng dung lượng cho tác phẩm: Bức tranh (Nguyễn Minh Châu)
-Kết cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện đứng ra ngoài, đóng vai trò là đạo diễn để tổ chức diễn biến câu chuyện qua lời kể, qua đó hoàn thiện chân dung NV: Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu).
-Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết còn để ngỏ, mở ra những khả năng liên tưởng rộng lớn: CHÍ PHÈO (Nam Cao) Vợ nhặt (Kim Lân).
7. Về điểm nhìn và phương thức kể chuyện.
- Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn nghệ thuật được xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ… Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.
- Phương thức kể chuyện, trong truyện ngắn, người ta thường dùng nhiều cách kể chuyện. Các nhà văn thường thay đổi cách kể và có thể có các hình thức kể hỗn hợp. Có hai hình thức phổ biến là: + Tường thuật lại quá trình, diễn biến sự việc: Vợ nhặt (Kim
2
Lân) + Miêu tả lại diễn biến sự kiện: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) Để nhận thức phương thức kể chuyện, người ta căn cứ vào các tình huống kể chuyện: + Tình huống khách quan: Tác giả đứng bên ngoài kể lại điều xảy ra: Chiếc lá cuối cùng (Ohenry) + Tình huống chủ quan: Tác giả hoặc người kể chuyện tự đóng vai trò là nhân vật chính của tác phẩm; kể lại những sự kiện, hành động, việc làm, ý nghĩa hoặc mối quan hệ người – người, hoặc phân tích, bình luận chung. Cũng cần chú ý đến quan điểm của người trần thuật trong truyện ngắn. Quan điểm đó thể hiện trong cách kể, nhưng cũng có khi thái độ bề mặt qua ngôn ngữ lại đánh lừa ta (CHÍ PHÈO – Nam Cao). Truyện ngắn cũng thường có viễn cảnh – khung cảnh được mở ra trong tương lai mà qua tác phẩm người đọc phát hiện hoặc cảm nhận được.
8. Cốt truyện, chi tiết
-Cốt truyện là yếu tố quan trọng của truyện kể, gồm các sự kiện chính được sắp xếp theo một trật tự nhất định.
- Chi tiết đem lại sự sinh động, lôi cuốn cho tác phẩm văn học.
Chi tiết tiêu biểu là chi tiết gây ấn tượng, cảm xúc mạnh đối với người đọc, góp phần quan trọng tạo nên hình tượng nghệ thuật gợi cảm và sống động trong tác phẩm. 9. Về cách xây dựng tình huống.
-Tình huống truyện là “cái tình thế của câu chuyện”, là cảnh huống chứa đựng trong nó những mâu thuẫn, xung đột hoặc những khả năng tiềm tàng để cốt truyện diễn tiến, phát triển, nhân vật bộc lộ tính cách. Tình huống truyện có vai trò hết sức quan trọng, được ví như “cái chìa khóa vận hành cốt truyện”. Từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn. Tình huống là thời điểm, khoảnh khắc nhất định trong tác phẩm, ở đó tập trung điểm nút chủ đạo trong tác phẩm của nhà văn. Tạo tình huống là một đặc điểm thi pháp truyện ngắn. Do dung lượng nhỏ, truyện ngắn buộc phải tìm đến một tình huống – tức là một khoảnh khắc đặc biệt trong đời sống – để thể hiện tập trung mối quan hệ con người, bật sáng tư tưởng của bản thân tác giả. Truyện ngắn có thể có một hay nhiều tình huống, tạo thành một hệ thống.
- Các kiểu tình huống truyện tiêu biểu là: tình huống nhận thức, tình huống tâm trạng, tình huống hành động. Tình huống TN thường rất độc đáo, ấn tượng, tạo hiệu quả thẩm mĩ cao.
10. Nhân vật
- Nhân vật là đối tượng ( người,thần tiên, ma quỷ, con vật, đồ vật,…) có hình dáng, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, cảm xúc, suy nghĩ,… được nhà văn khắc hoạ trong tác phẩm. - Miêu tả nhân vật trong truyện kể
- Ngoại hình của nhân vật
+ Dáng vẻ bề ngoài (thân hình, gương mặt, trang phục, …).
+ Là những biểu hiện đặc điểm bên ngoài của nhân vật, thể hiện qua hình dáng, nét mặt, trang phục.
- Nhân vật là đối tượng (người, thần tiên, ma quỷ, con vật, đồ vật,…) có hình dáng, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, cảm xúc, suy nghĩ,… được nhà văn khắc hoạ trong tác phẩm. - Hành động: những cử chỉ, việc làm thể hiện cách ứng xử của nhân vật với bản thân và thế giới xung quanh.
- Ngôn ngữ: lời nói của nhân vật (đối thoại và độc thoại).
- Thế giới nội tâm: những cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật. * Nhân vật chính: Nhân vật chính là nhân vật then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác phẩm của mình.
3
* Nhân vật phụ hay nhân vật bên lề là các nhân vật không phải là trọng tâm của một câu chuyện, nhưng có vai trò ảnh hưởng tới cốt truyện. Họ thường xuất hiện (hoặc được nhắc đến) trong câu chuyện có ảnh hưởng trực tiếp, hỗ trợ làm nổi bật nhân vật chính. * Lời của nhân vật
+ Là lời nói của các nhân vật trong truyện.
+ Ngôn ngữ nhân vật là lời của nhân vật trong tác phẩm, thường được nhận biết về mặt hình thức qua các dấu hiệu như: câu nói được đặt thành dòng riêng và có gạch đầu dòng, câu nói được đặt trong ngoặc kép sau dấu hai chấm.
* Hành động của nhân vật là những động tác, hoạt động của nhân vật, những hành vi, ứng xử của nhân vật với những nhân vật khác và với các sự vật, hiện tượng trong tác phẩm.
* Ý nghĩ của nhân vật là những suy nghĩ của nhân vật về con người, sự vật hay sự việc nào đó. Ý nghĩ thể hiện một phần tính cách, tình cảm, cảm xúc của nhân vật, chi phối hành động của nhân vật.
*VAI TRÒ CỦA NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đơi. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm
11. Người kể chuyện
- Người kể chuyện là nhân vật do nhà văn tạo ra để kể lại câu chuyện, có thể trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm (ngôi thứ nhất), cũng có thể “giấu mình” (ngôi thứ ba) - Lời của người kể chuyện
+ Là phần lời người kể dùng để thuật lại một sự việc cụ thể hay giới thiệu, miêu tả khung cảnh, con người, sự vật,...
+ Người kể theo ngôi thứ nhất là lời của người xưng “tôi”.
+ Người kể theo ngôi thứ ba là lời của người ngoài, không tham gia câu chuyện. 12. Ngôi kể
1. Ngôi kể là gì? Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện. Việc sử dụng ngôi kể phụ thuộc vào hoàn cảnh của đề, Luật Minh Khuê sau đây sẽ phân tích về ngôi kể đến với bạn đọc.
2. Các loại ngôi kể: ( chủ yếu là ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba) *Ngôi kể thứ nhất.
– Khi người kể xưng “tôi” là cách chọn ngôi kề thứ nhất. Người kể có thể kể trực tiếp những gì mình nghe, mình thấy , mình trải qua, có thể trực tiếp nói ra cảm tưởng ý nghĩ của mình.
Dế Mèn tự xưng là “tôi” – nhưng “tôi” không phải là tác giả Tô Hoài * Ngôi kể thứ hai
Ngôi kể thứ hai là một dạng ngôi kể được áp dụng để trình bày câu chuyện hoặc sự kiện từ quan điểm của một người khác, thường là người kể chuyện. Trong ngôi kể thứ hai, người kể sử dụng các từ như “bạn”, “ngươi”, “cậu”, “ông”, “bà” để chỉ đến người mà câu chuyện đang được kể về.
*Ngôi kể thứ ba.
– Người kề giấu mặt,gọi tên các nhân vật bằng chính tên của chúng, người kể có thể kể linh hoạt tự do những gì diễn ra với nhân vật.
– Đây là ngôi kể hay được sử dụng.
3. Tác dụng của ngôi kể:
*Ngôi thứ nhất:
Người kể xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất có thể là chính tác giả hoặc nhân vật trong truyện.Người kể có dịp bộc bạch những trải nghiệm, suy nghĩ, cảm xúc của cá nhân...mà người khác không biết.Các trạng thái tinh thần: ý nghĩ, cảm xúc, cảm giác… thường vẫn nổi lên trên chuyện. Người kể không phải chỉ kể chuyện (miêu tả những gì “tôi thấy”) mà còn kể tâm trạng (miêu tả những gì “tôi cảm”, “tôi nghĩ”).Do đó, nó luôn
4
luôn sống động. Kể và suy ngẫm, kể và tự ý thức, kể và độc thoại là những biểu hiện đặc biệt của cách kể chuyện. Cách kể ngôi thứ nhất khiến câu chuyện trở nên chân thực ,khiến người đọc tin đó là sự thật.
Nói tới lối kể chuyện theo ngôi thứ nhất, bên cạnh những ưu điểm của nó, người ta thường nói tới mặt hạn chế: dễ đem lại cho người đọc cảm giác đơn điệu, nhàm chán, bởi khi trần thuật, tác phẩm thường dừng lại ở góc nhìn của một nhân vật, nội dung kể mang tính chủ quan, thiếu khách quan.
*Tác dụng ngôi kể thứ ba:
Kể theo ngôi thứ ba: người kể tự giấu mình đi và gọi tên các nhân vật theo tên của chúng. Cách kể này giúp người kể có the kể chuyện một cách linh hoạt, tư do những gì diễn ra với nhân vật.Câu chuyện mang tính khách quan. Tuy nhiên hạn chế là thiếu tính chủ quan.
VD: trong tác phẩm Làng của Kim Lân Tác dụng: Chọn ngôi kể thứ ba, giúp cho nhân vật ông Hai trong truyện được đánh giá một cách khách quan, tự nhiên. Tình yêu làng, yêu nước của ông được đánh giá khách quan chứ không phải chủ quan của người kể. *Có truyện kể theo cả 2 ngôi kể:
- Với lối tự sự nhiều người kể, đề cao thế giới bên trong nhân vật, vừa mang âm hưởng khách quan khi kể về người khác, vừa gợi lên những ý nghĩ, tâm trạng có tính chất chủ quan của người kể, các tác phẩm nhìn chung mang giọng điệu đa âm với những cặp đặc điểm đối nghịch: sắc lạnh - tình cảm, tỉnh táo nghiêm nhặt - chan chứa trữ tình. Bởi vậy, chúng có khả năng tác động tới cả lý trí và tình cảm người đọc, cùng lúc khơi dậy nơi họ nhiều xúc cảm và suy ngẫm.
Truyện Truyền Kì
Truyện truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự thời trung đại, phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường.
Ở Việt Nam, truyện truyền kì được viết bằng chữ Hán, phát triển mạnh ở thế kỉ XVI - XVII, tiêu biểu là Thánh Tông đi thảo, tương truyền của Lê Thánh Tông, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
- Đặc điểm của truyện truyền kì thể hiện qua các yếu tố: không gian, thời gian, nhân vật, cốt truyện, lời của người kể chuyện và lời của nhân vật.
+ Không gian truyền kì: Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới thánh thần, ma, quỷ có sự tương giao. Điều này làm nên đặc điểm riêng cho không gian truyện truyền kì - không gian giàu yếu tố kì ảo.
+ Thời gian truyền kì: Có sự khác biệt về thời gian ở cõi trần với cõi âm ti, thuỷ phủ hoặc nơi thượng giới (biểu hiện qua nhịp độ nhanh chậm của thời gian); con người có thể sống nhiều đời, nhiều cuộc đời hoặc sống nhờ các phép thuật kì ảo. + Nhân vật trong truyện truyền kì: Nhân vật có thể là con người hay thần linh, ma, quỷ... Nếu nhân vật là con người, họ thường có nét đặc biệt nào đó; nếu nhân vật là thần linh, ma, quỷ, họ thường mang hình ảnh, tính cách của con người. + Cốt truyện trong truyện truyền kì: Truyện truyền kì thường sử dụng yếu tố kì ảo tạo nên những biến đổi bất ngờ và hợp lí hóá những điều ngẫu nhiên, bất bình thường trong cốt truyện.
+ Lời của người kể chuyện: Lời của người kể chuyện trong truyện truyền kì là lời kể của một người biết hết mọi chuyện ở trần gian, địa phủ, thượng giới; mọi hành động, suy nghĩ của nhân vật. Lời của người kể chuyện thường chiếm tỉ lệ cao trong văn bản. + Lời đối thoại trong văn bản truyện là lời thoại giữa các nhân vật, thể hiện nội dung
giao tiếp của họ trong sự luân phiên (người nói và người nghe) đổi vai cho nhau. + Lời độc thoại trong văn bản truyện là lời nhân vật tự nói với mình, thường dưới dạng lời nói thầm trong đầu (độc thoại nội tâm).
5
Truyện thơ Nôm
- Truyện thơ Nôm là thể loại tự sự bằng văn vần và viết bằng chữ Nôm, ra đời từ thế kỉ XVII, phát triển mạnh vào cuối thế kỉ XVIII và thế kỉ XIX.
Xét theo thể thơ, truyện thơ Nôm chủ yếu được viết theo thể thơ lục bát. Xét về ngôn ngữ và đặc điểm nghệ thuật, truyện thơ Nôm được phân loại thành truyện thơ Nôm bình dân và truyện thơ Nôm bác học. Xét theo tác giả, truyện thơ Nôm được phân loại thành truyện thơ Nôm khuyết danh và truyện thơ Nôm hữu danh. “Khuyết danh” là để chỉ
những tác phẩm không xác định được tác giả (ví dụ Thạch Sanh, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa,...) khác với “hữu danh” là có tên tác giả (ví dụ Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu).
- Cốt truyện của truyện thơ Nôm thường theo một trong hai mô hình: gặp gõ (hội ngộ) - tai biến (lưu lạc) - đoàn tụ (đoàn viên), ví dụ như Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên,... hoặc mô hình nhân - quả (ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ), ví dụ như Quan Âm Thị Kính, Thạch Sanh,...
- Nhân vật của truyện thơ Nôm thường chia thành hai tuyến: nhân vật chính diện (đại diện cho cái tốt, cái đẹp, tiến bộ) và nhân vật phản diện (đại diện cho cái xấu, cái ác, bảo thủ). Nhân vật chính thường được xây dựng theo khuôn mẫu như: chàng trai tài giỏi, nghĩa khí; cô gái xinh đẹp, nết na,... Bên cạnh nhân vật là con người, trong các truyện thơ Nôm mô phỏng truyện cổ tích thần kì còn có những nhân vật kì ảo như đồ
vật hay loài vật thần kì. Đặc điểm, tính cách của nhân vật trong truyện thơ Nôm cũng thường được thể hiện qua hành động, ngôn ngữ (lời thoại), tâm trạng, cảm xúc,... - Lời thoại là lời của nhân vật, gồm đối thoại (lời của các nhân vật nói với nhau) và độc thoại (thường là những lời thoại bộc lộ tâm trạng, cảm xúc, còn gọi “độc thoại nội tâm”). Trừ một số ít truyện thơ Nôm như Truyện Kiều của Nguyễn Du có lời của nhân vật gồm cả đối thoại và độc thoại, trong các truyện thơ Nôm nói chung, lời của nhân vật phần lớn là đối thoại.
Truyện Trinh Thám
- Truyện trinh thám là thể loại truyện kể lại quá trình tìm kiếm sự thật về một vụ án. Dựa vào những manh mối ban đầu, người điều tra (thám tử, cảnh sát,...) từng bước khám phá sự thật.
- Về nội dung, truyện phải có: (1) một vụ việc đã xảy ra và thủ phạm còn giấu mặt; (2) một cuộc điều tra được tiến hành chủ yếu bởi các thám tử và/ hoặc nhân vật bị tình nghi là thủ phạm.
- Chi tiết trong truyện trinh thám là loại chi tiết gắn với các tình huống có tác dụng gợi mở phán đoán đối với hoạt động điều tra. Mỗi chi tiết ấy như một bằng chứng hoặc một manh mối quan trọng trong quá trình điều tra.
- Không gian trong truyện trinh thám là nơi diễn ra hoặc lưu giữ các manh mối về vụ án (dấu vết, tung tích của tội phạm, của nạn nhân hoặc những người liên quan,...). Đó cũng là không gian diễn ra các hoạt động điều tra, khám phá những sự thật về vụ án - Thời gian trong truyện trinh thám là thời gian diễn ra các hoạt động điều tra, từ lúc khởi đầu cuộc điều tra cho đến khi các nhà điều tra chính thức đưa ra bằng chứng, những phân tích, lí giải thuyết phục và kết luận về vụ án. Thời gian này thường có giới hạn trong một vài tuần hoặc vài ngày, thậm chí vài giờ. Điều này mang lại những thách thức cho nhân vật chính trong quá trình khám phá vụ án.
- Cốt truyện của truyện trinh thám xoay quanh quá trình điều tra, làm sáng tỏ vụ án:
6
Những bí mật về thủ phạm được giữ kín đến cùng, tạo nên sự hấp dẫn, khiến người đọc luôn luôn ở trong trạng thái căng thẳng.
- Nhân vật, nhân vật chính: Truyện trinh thám thường có những kiểu nhân vật quen thuộc: kẻ gây án giấu mặt, nạn nhân, cảnh sát, thám tử,... trong đó, nhân vật chính là thám tử (chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư) - người có kĩ thuật điều tra vượt trội, đồng thời có khả năng quan sát tinh tường, khả năng phân tích, suy luận, đánh giá sắc bén.
- Lời người kể chuyện: Trong truyện trinh thám, lời của người kể chuyện (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất) gồm lời kể, miêu tả, phân tích, bình luận thường được kết hợp với lời của các nhân vật khác, nhất là lời của nhân vật thám tử, nhằm tái hiện một cách sinh động, hấp dẫn quá trình điều tra, khám phá vụ án.
- Lời đối thoại trong truyện trinh thám thường góp phần mở ra các manh mối cho cuộc điều tra.
- Lời độc thoại nội tâm trong truyện trinh thám được sử dụng nhằm thể hiện diễn biến tâm lí của nhân vật, nhất là nhân vật thám tử.